Cách đây 10 năm khi nói đến vitamin B9 hay còn gọi là Folic Acid người ta chỉ biết nó cần bổ sung cho phụ nữ mang thai, người bệnh đang dùng các loại thuốc kháng Folic Acid, điều trị chứng thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ. Ngày nay, nhờ sự tìm tòi tích cực của các nhà khoa học đã phát hiện nhiều tác dụng quý của folic acid cho sức khỏe con người từ lúc là mầm sống đến tuổi già.
TRONG BÀI NÀY
- Giới thiệu
- Vai trò của vitamin B9
- Phụ nữ mang thai
- Nhu cầu folic acid hàng ngày của cơ thể
- Nguồn cung cấp
1. Giới thiệu
Vitamin B9 còn gọi là vitamin Bc, vitamin L1, vitamin M, acid folic, folacin hay folate. Tên hóa học: Pteroyl monoglutamic Acid.
Năm 1941, các nhà khoa học phát hiện trong lá của rau Bina (spinach) có acid folic. Ngày nay, vitamin B9 ở mỗi nước có một cách quản lý khác nhau. Ở Việt Nam được coi là thuốc. Có các dạng thuốc: uống (viên nén, viên nang, dung dịch) với hàm lượng 0,4; 0,8; 1; 5mg. Hoặc phối hợp với sắt (Fe); phối hợp với các vitamin khác nhau. Thuốc tiêm dưới dạng muối của acid folic 5 mg/ml để tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch hoặc dưới da (thuốc tiêm phải bán theo đơn). Ở Mỹ, viamin B9 được coi là thực phẩm chức năng.
2. Vai trò của vitamin B9
Acid Folic có vai trò sinh học trong việc tạo ra tế bào mới và duy trì chúng. Nó đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phân chia và lớn lên nhanh của tế bào như ở trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai. Chất này cần thiết trong việc nhân đôi ADN và giúp tránh đột biến ADN vốn là một yếu tố gây ung thư.
Chính vì có tác dụng giúp tái tạo tế bào như vậy mà Acid Folic có thể được sử dụng để phục hồi phục sinh lực cho các cơ quan nội tạng sau mỗi sự cố thiếu máu hay tổn thương nội mạng tế bào. Điển hình là việc Acid Folic đã được đưa vào trong các sản phẩm dược phẩm và thực phẩm chức năng dành cho người đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim. Khi bệnh nhân gặp tình trang đau thắt ngực có nghĩa là mạch máu của họ đã có xảy ra một số sự tắc nghẽn nhỏ do đó dẫn đến thiếu máu cơ tim một phần nhỏ. Và nếu cứ để tình trang này tiếp diễn thì khả năng xảy ra cơn nhồi máu cơ tim dẫn đến đột tử là rất cao. Vì vậy việc bổ sung Acid Folic cho những đối tượng này là điều cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên số lượng cần bổ sung là khá ít vì nó còn liên quan tới vấn đề sau đây.
Việc thiếu acid folic làm chậm quá trình tổng hợp ADN và phân chia tế bào, ảnh hưởng đến các khu vực có sự tái tạo tế bào nhanh như ở tủy xương. Sự thiếu hụt Acid Folic làm chậm sự tổng hợp ADN, trong khi đó là không ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp ARN và protein, khiến tạo ra nhiều các tế bào hồng cầu lớn trong máu, gọi là nguyên hồng cầu to, gây ra sự thiếu hồng cầu bình thường và chứng bệnh thiếu máu nguyên hồng cầu to.
3. Phụ nữ mang thai
Acid Folic đặc biệt cần thiết cho tất cả các phụ nữ có ý định mang thai. Trong khoảng thời gian ngay trước và ngay sau khi thụ thai, cần ăn đủ Acid Folic, để bào thai được phát triển khỏe mạnh, tránh được các biến cố bào thai hay bệnh tật bẩm sinh nguy hiểm cho thai nhi.
Một trong các nguy cơ cho bào thai nếu thiếu Acid Folic là bệnh khuyết tật ống thần kinh. Bệnh này có thể gây ra sự hở xương sống, hở hộp sọ và thậm chí vô não. Nguy cơ này có thể giảm nếu uống thêm thuốc bổ trợ chứa Acid Folic, ngoài chế độ dinh dưỡng giàu Acid Folic bình thường.
Theo một số tài liệu, phụ nữ mang thai nên uống thêm khoảng 400μg Acid Folic từ thuốc bổ trợ hằng ngày, cùng với bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Điều này giúp đạt được nhu cầu dinh dưỡng hằng ngày về Acid Folic cho phụ nữ mang thai là 600μg như trình bày bên dưới.
Hậu quả của thiếu vitamin B9: Thiếu vitamin B9 ở phụ nữ mang thai gây nên dị tật thần kinh như dị tật chẻ đôi đốt sống. Những nghiên cứu mới của FDA cho thấy nếu phụ nữ mang thai có folate máu thấp và lượng Aminoacid homocystein cao sẽ làm tăng nguyên cơ bệnh tim mạch cho bào thai.
Ở trẻ em và người trưởng thành gây thiếu máu hồng cầu to.
4. Nhu cầu Folic Acid hàng ngày của cơ thể
- Trẻ còn bú: 50µg
- Từ 1 đến 3 tuổi: 100µg
- Từ 4 đến 12 tuổi: 200µg
- Từ 13 tuổi đến người lớn 300µg
- Phụ nữ có thai hoặc cho con bú 500µg (giới hạn an toàn 800µg).
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Sĩ và Hà Lan: Hàng ngày uống 800µg Folic Acid sẽ giúp cho người già tăng khả năng nhận thức, duy trì thính lực, tiến bộ về trí nhớ và tổng hợp tin tức.
Quỹ Chăm sóc người cao tuổi Mỹ (CLF) khuyến cáo, người cao tuổi nên bổ sung hàng ngày 400µg Folic Acid.
5. Nguồn cung cấp
Folic Acid có trong thức ăn thiên nhiên như: các loại rau xanh tươi sống, nấm, đậu, củ, quả, ngũ cốc, thịt và phủ tạng động vật… Folic aicd cao nhất là gan bò, gan gà: 590µg, sau đến hạt đậu đũa 430µg, hạt đậu tương 210µg, quả ổi chín 170µg, rau mồng tơi 134µg, hạt lạc 124µg, rau đay 123µg, rau muống 122µg…
Folic Acid không bền với nhiệt, không khí, ánh sáng, chất kiềm. Các loại rau tươi không nên ngâm lâu dưới nước, không nấu chín nhừ (thực phẩm đóng hộp mất từ 50 – 90% Acid Folic).
Vì vậy, người nội trợ cần biết những thức ăn dễ kiếm, rẻ tiền này để sử dụng trong bữa ăn hàng ngày là đã đảm bảo nhu cầu Folic Acid mà không cần mua thực phẩm chức năng nhập ngoại đắt tiền.
Vi khuẩn đường ruột có khả năng tổng hợp một lượng Folic Acid để đáp ứng nhu cầu cơ thể khi thức ăn không đủ cung cấp (tuy vậy, một số người lại ít có khả năng này do di truyền hoặc do cơ thể yếu).
Trong các loại thức ăn kể trên, Folic Acid tồn tại dưới dạng poly glutamat, khi vào cơ thể được men carboxypeptidase thủy phân rồi bị khử nhờ DHF reductase ở niêm mạc ruột và methyl hóa tạo MDHF, chất này được hấp thụ vào máu, sau đó được phân bố vào các mô trong cơ thể, được tập trung trong dịch não tủy và dự trữ ở gan.
Folic Acid trong dược phẩm được giải phóng nhanh ở dạ dày và hấp thu ở đoạn đầu ruột non, được tích trữ chủ yếu ở gan và dịch não tủy.